Đình Nam Bộ xưa & nay
Đình Nam Bộ xưa & nay
Đình Nam Bộ xưa & nay

Đình Nam Bộ xưa & nay

Được bán bởi: Sách Hà Nội
0/5 (0 đánh giá)
129,000 đ 129,000 đ
Thương hiệu: Sách Hà Nội
Số lượng:
Tùy chọn giao hàng
Quận Ba Đình, Thành phố Hà Nội
  • Thành phố Hà Nội
  • Tỉnh Hà Giang
  • Tỉnh Cao Bằng
  • Tỉnh Bắc Kạn
  • Tỉnh Tuyên Quang
  • Tỉnh Lào Cai
  • Tỉnh Điện Biên
  • Tỉnh Lai Châu
  • Tỉnh Sơn La
  • Tỉnh Yên Bái
  • Tỉnh Hoà Bình
  • Tỉnh Thái Nguyên
  • Tỉnh Lạng Sơn
  • Tỉnh Quảng Ninh
  • Tỉnh Bắc Giang
  • Tỉnh Phú Thọ
  • Tỉnh Vĩnh Phúc
  • Tỉnh Bắc Ninh
  • Tỉnh Hải Dương
  • Thành phố Hải Phòng
  • Tỉnh Hưng Yên
  • Tỉnh Thái Bình
  • Tỉnh Hà Nam
  • Tỉnh Nam Định
  • Tỉnh Ninh Bình
  • Tỉnh Thanh Hóa
  • Tỉnh Nghệ An
  • Tỉnh Hà Tĩnh
  • Tỉnh Quảng Bình
  • Tỉnh Quảng Trị
  • Tỉnh Thừa Thiên Huế
  • Thành phố Đà Nẵng
  • Tỉnh Quảng Nam
  • Tỉnh Quảng Ngãi
  • Tỉnh Bình Định
  • Tỉnh Phú Yên
  • Tỉnh Khánh Hòa
  • Tỉnh Ninh Thuận
  • Tỉnh Bình Thuận
  • Tỉnh Kon Tum
  • Tỉnh Gia Lai
  • Tỉnh Đắk Lắk
  • Tỉnh Đắk Nông
  • Tỉnh Lâm Đồng
  • Tỉnh Bình Phước
  • Tỉnh Tây Ninh
  • Tỉnh Bình Dương
  • Tỉnh Đồng Nai
  • Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
  • Thành phố Hồ Chí Minh
  • Tỉnh Long An
  • Tỉnh Tiền Giang
  • Tỉnh Bến Tre
  • Tỉnh Trà Vinh
  • Tỉnh Vĩnh Long
  • Tỉnh Đồng Tháp
  • Tỉnh An Giang
  • Tỉnh Kiên Giang
  • Thành phố Cần Thơ
  • Tỉnh Hậu Giang
  • Tỉnh Sóc Trăng
  • Tỉnh Bạc Liêu
  • Tỉnh Cà Mau
    Vận chuyển
    Thanh toán khi nhận hàng hoặc online
    MÔ TẢ SẢN PHẨM

    Đình Nam Bộ Xưa & Nay


    Lời tục rằng “Đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt” là cách nói văn vẻ, còn thực tế thiết chế văn hóa - tín ngưỡng của làng gồm: “đình - chùa - miễu -võ”; trong đó, đình là trú sở của vị thần được thiên tử cắt đặt nhiệm vụ “bảo ngã lê dân”, tức bảo hộ cộng đồng dân cư sống trong khoảng “đất vua” được xác định là đơn vị hành chính cơ sở - gọi chung là làng, gọi chính thức là thôn/xã. Ở cấp hành chính cao hơn, cấp tỉnh thành, kinh đô, thiết chế văn hóa - tín ngưỡng mang tính chính thống gồm “đàn-miếu-đền-từ”. Như vậy, xét về đại thể, đình là cơ sở tín ngưỡng trung gian nối thiết chế chính thống và thiết chế dân gian. Ở đây, đình thuộc thể chế thờ tự chính thống, từ tín niệm, đối tượng thờ tự đến lễ thức đều tuân theo điển lệ - xét về cơ bản, trừ trường hợp đình làng có hèm; và mặt khác, tùy theo từng tọa độ địa lý - lịch sử cụ thể, đình dung nạp các đối tượng phối tự, tòng tự vào khuôn viên đình hay vào các vị trí phụ thuộc trong đình…

    Tính chất phồn tạp của đình bắt nguồn từ lịch sử hình thành và quá trình điển lệ hóa của các triều đại trong lịch sử. Khởi đi từ đình trạm, đình trú - một cơ sở công ích thế tục, đến thế kỷ XIII được lệnh chính thức “dựng tượng Phật để thờ” trong đình và đến cuối thế kỷ XV mới bắt đầu trở thành đình làng và vị thần Thành Hoàng, một cách chính thống là thần bảo hộ các địa điểm quan yếu có thành có hào bao bọc (như kinh đô, tỉnh thành…) giờ đã trở thành thần Bản cảnh / Đương cảnh bảo hộ cho làng mạc, thôn - xã, nơi chẳng có thành cao, hào sâu. Do đó, tập hợp thần Thành Hoàng làng đã kế thừa truyền thống địa phương, theo đó, bao gồm cả nhiên thần, thiên thần và nhân thần, tức các thần linh có nguồn gốc từ tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, động vật, thực vật, linh vật, vật tổ, tổ tiên, anh hùng, danh nhân lịch sử - văn hóa…

    Đình làng được bảo tồn đến nay là vậy, nhưng điều đó, không có nghĩa là không trải qua những thử thách. Trước hết, trong chín năm kháng chiến(1945 - 1954) một số đình làng bị dỡ bỏ theo chủ trương toàn dân kháng chiến toàn diện kháng chiến. Rõ ràng, trong đợt này, đình và các công trình kiến trúc khác phải dỡ bỏ vì mục đích ngăn chặn giặc Pháp chiếm làm công sự chống lại lực lượng kháng chiến của ta; song đợt tiêu thổ này, một cách nào đó đã khởi đầu cho công cuộc “đả thực bài phong”, tức ngoài mục đích quân sự - quốc phòng việc làm này còn hàm chứa mục đích xóa bỏ tàn tích phong kiến còn bảo lưu trong xã hội thực dân nửa phong kiến trước thời điểm 1945 mà các tư trào cải lương phong hóa theo “chủ nghĩa tiến bộ” trước đó đã lên án và coi đó là lực cản của đà tiến bộ. Nói cách khác, một cơ cấu tín ngưỡng - lễ hội chính thức đáp ứng nhu cầu chính đáng như một nền tảng phong hóa, định hướng cho sự đồng nhất cộng đồng và biểu hiện bản sắc văn hóa đa dạng ở từng tọa độ địa lý là chưa định hình và còn đang “diễn biến phức tạp”, chưa có hồi kết. Hiển nhiên tín ngưỡng - lễ hội là nhu cầu của cộng đồng và cũng như các dạng thức văn hóa khác, chúng cũng luôn biến đổi theo sự biến chuyển của lịch sử một cách tự phát lẫn tự giác.

    Lễ hội truyền thống ở xứ ta, đa phần là lễ hội nghi lễ, là những biểu hiện cụ thể của một tín ngưỡng bằng một hệ thống nghi lễ và các hình thức diễn xướng cùng các thứ vật chất tương ứng như lễ vật, cờ phướn, tàn lọng, đồ tự khí và những vật phẩm trang nghiêm cho cuộc lễ… Nói cách khác, lễ hội là một chỉnh thể nhằm biểu đạt lòng sùng tín theo một tín lý nhất quán chứ không phải là tổng số của phép cộng hai đại lượng tách biệt lễ và hội như cách hiểu thời thượng trong vài thập kỷ gần đây. Trong xã hội hiện đại, lễ hội cùng lúc có thể giảm bớt / mất tính thiêng, nhưng do yêu cầu cố kết cộng đồng nên lễ hội được duy trì một cách tự giác với những biến thái mới mẻ. Lễ hội giờ đây là một thiết chế bảo vệ sự tái sinh nhằm tái tạo sợi dây liên kết các thành viên của một xã hội – ở đó, điều cốt yếu không phải sự thiêng liêng huyền bí mà là biểu tượng của tinh thần cộng đồng hàm chứa sự thiêng liêng của lịch sử - văn hóa - chính trị.


    Đánh giá
    0/5.0
    0 Đánh giá
    0
    0
    0
    0
    0
    Nhận xét về sản phẩm